Lịch sử hoạt động Namikaze (tàu khu trục Nhật)

Sau khi hoàn tất, Namikaze được điều về Quân khu Hải quân Yokosuka, nơi nó cùng với các tàu khu trục chị em Nokaze, NumakazeKamikaze (soái hạm) được tập trung để hình thành nên Hải đội Khu trục 1 (第一駆逐艦). Trong những năm 1938-1939, hải đội này được phân công tuần tra tại khu vực bờ biển Bắc và Trung của Trung Quốc nhằm hỗ trợ cho những nỗ lực của quân Nhật trong cuộc Chiến tranh Trung-Nhật.[5]

Vào lúc xảy ra cuộc tấn công Trân Châu Cảng, Namikaze đặt căn cứ tại Quân khu Bảo vệ Ōminato về phía Bắc Nhật Bản, đảm trách nhiệm vụ tuần tra vùng biển ngoài khơi đảo Hokkaidōquần đảo Kurile.

Trong khi diễn ra trận Midway vào tháng 5 năm 1942, Namikaze được phân về lực lượng dự trữ dành cho Chiến dịch quần đảo Aleut, nhưng đã không rời khỏi vùng biển nội địa Nhật Bản. Sau đó nó quay lại công tác tuần tra ngoài khơi Ōminato cho đến tháng 7 năm 1943, nơi mà khu vực tuần tra được mở rộng bao gồm hầu hết đảo Honshū về phía Nam đến tận vịnh Ise. Vào tháng 7, nó tạm thời được điều về Hạm đội 5 Hải quân Đế quốc Nhật Bản hỗ trợ cho việc triệt thoái lực lượng Nhật Bản khỏi Kiska, nhưng chỉ ở trong lực lượng dự bị. Nó bị hư hại nhẹ trong một vụ va chạm với tàu tuần tra duyên hải Manei Maru số 7 ở lối vào cảng Otaru, Hokkaidō vào ngày 6 tháng 11 năm 1943. Namikaze tiếp tục đặt căn cứ tại Ōminato đảm trách tuần tra và hộ tống vận tải tại vùng biển phía Bắc cho đến tháng 12 năm 1943.[6]

Vào ngày 1 tháng 12 năm 1943, Namikaze được điều đến Moji để hộ tống một đoàn tàu vận tải đi đến Đông Dương thuộc Pháp. Nó quay trở lại Ōminato tiếp tục vai trò tuần tra tại Hokkaidō và Kurile từ tháng 3 năm 1944. Vào ngày 21 tháng 8 năm 1944, Namikaze trúng phải ngư lôi phóng từ tàu ngầm Mỹ USS Seal (SS-183) ở phía Bắc Iturup, làm hư hại nặng phần đuôi tàu, và phải được tàu khu trục Kamikaze kéo về Otaru để sửa chữa khẩn cấp.[7] Sau đó nó được gửi đến Xưởng hải quân Maizuru để được cải biến thành một tàu chở ngư lôi cảm tử có người lái kaiten.

Công việc cải biến bao gồm việctháo dỡ ba trong số bốn tháp pháo chính cùng toàn bộ ống phóng ngư lôi. Nồi hơi thứ nhất cũng được tháo bỏ, giảm công suất động lực còn 25.000 mã lực (18,6 MW) và tốc độ tối đa còn 54,6 km/h (29,5 knot). Nó được bổ sung sáu khẩu pháo phòng không 25 mm Kiểu 96 và tám súng máy 13 mm phòng không. Đuôi tàu được cải biến với một sàn tàu dốc, và nó có thể mang theo từ hai đến bốn ngư lôi kaiten.

Sau khi hoàn tất việc tái trang bị vào ngày 1 tháng 2 năm 1945, Namikaze được điều về Hạm đội Liên Hợp, nhưng không có ghi nhận nào về việc Namikaze từng phóng ngư lôi kaiten trong chiến đấu. Từ ngày 16 tháng 6 năm 1945, Namikaze đặt căn cứ tại Ube trong vùng biển Nội địa, hoạt động chủ yếu như một tàu quét mìn tìm kiếm số thủy lôi do máy bay B-29 Superfortress thả xuống. Nó có mặt tại Căn cứ Hải quân Kure vào lúc Nhật Bản đầu hàng.

Namikaze được chính thức rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 5 tháng 10 năm 1945. Tuy nhiên, sau khi giải giới, nó được sử dụng vào việc hồi hương binh lính Nhật Bản còn đang trú đóng ở nước ngoài, và đảm trách vai trò này từ ngày 1 tháng 12 năm 1945 cho đến năm 1947.[4]

Phục vụ cùng Trung Hoa Dân Quốc

Vào ngày 3 tháng 10 năm 1947, Namikaze được chuyển cho Trung Hoa Dân Quốc như một chiến lợi phẩm và được đặt lại lên là Shen Yang. Shen Yang đặt căn cứ tại Thanh Đảo từ năm 1947 chho đến khi hải cảng tại thành phố này rơi vào tay lực lượng công sản trong cuộc Nội chiến Trung Quốc. Nó tiếp tục được Hải quân Trung Hoa Dân Quốc sử dụng từ các căn cứ tại Đài Loan cho đế khi bị tháo dỡ vào năm 1960.